Bệnh virus mùa xuân trên cá chép thường xảy ra khi nhiệt độ môi trường giảm. Nhiệt độ nước nuôi cá thường dưới 20 độ C. Đây là mức bà con nên thận trọng trong việc chăm sóc. Vì vi khuẩn, virus,.. giai đoạn này phát triển rất nhanh. Nếu nghiêm trọng hơn có thể gây cá chết hàng loạt. Bài viết này để giới thiệu với bà con dấu hiệu của bệnh virus mùa xuân trên cá chép; và kèm theo đó là biện pháp phòng bệnh tổng hợp. Cụ thể sẽ giúp bà con hiểu được dấu hiệu bệnh bên ngoài và bên trong; giai đoạn cá hay bị bệnh; giải pháp cải tạo ao; phương pháp cho ăn, bổ sung vitamin C,….
Mục lục
Mùa bệnh virus mùa đã đến
Miền bắc nước ta đang bước vào thời điểm giao giữa mùa xuân và mùa hè. Khoảng nhiệt độ ngày đêm từ 18 – 30 độ C là một trong những điều kiện thuận lợi cho các chủng vi khuẩn, vi rút… phát triển. Chúng có thể gây bệnh cho động vật nuôi thủy sản. Trong đó đặc biệt nguy hiểm và gây thiệt hại lớn cho người nuôi cá là bệnh virus mùa xuân trên cá chép.
Sau đây xin giới thiệu đến các hộ nuôi thủy sản nguyên nhân của bệnh virus mùa xuân trên cá chép. Cũng như biện pháp phòng bệnh tổng hợp cho việc nuôi cá hiệu quả hơn.
Nguyên nhân
Bệnh virus mùa xuân trên cá chép do virus Rhabdovirus carpio. Đây là một dạng virus có hình que và một đầu tròn như đầu viên đạn. Chúng có độ dài từ 90 đến 180 nm và độ rộng từ 60 đến 90 nm. Chúng có thể gây bệnh ở nhiều loại cá, nhưng gây bệnh phổ biến nhất vẫn là cá chép. Với khí hậu thay đổi đột ngột, hay giao mùa là những thời điểm thuận lợi cho loại virus này hoạt động. Chúng hoạt động tốt trong thời tiết lạnh, nhiệt độ thấp. Bên cạnh đó, môi trường sống của cá ô nhiễm, không đủ dinh dưỡng, hay nuôi quá nhiều cá,… Cũng có thể khiến cá giảm sức khoẻ, sức đề kháng. Dễ bị virus, vi khuẩn tấn công.
Biểu hiện bệnh virus mùa
Nếu người nuôi phát hiện cá tẻ đàn, bơi sát mặt nước, khó thở, bơi chao đảo, đỏ mắt; thì người nuôi cần lưu ý hơn. Bên cạnh đó, còn các biểu hiện như cơ thể có màu tối, những chỗ viêm có nhiều chất nhầy, mắt lồi nhẹ, mang nhợt nhạt; các tơ mang dính kết lại, bụng chướng to, có máu loãng chảy ra từ hậu môn. Bệnh nặng cá chết nổi hoặc chết chìm ở tầng đáy. Giải phẫu bên trong thấy nội tạng xuất huyết, bóng hơi xuất huyết và teo dần một ngăn. Bụng chứa nhiều dịch nhờn, ruột chướng hơi, tụy bị sưng. Khi cá bị bệnh nặng nội tạng thường nhũn ra.
Cách phòng và điều trị bệnh
Hiện nay, đã có vaccine điều trị bệnh này nhưng hiệu quả còn thấp và chi phí điều trị cao. Để giảm thiệt hại, nâng cao năng suất và hiệu quả nuôi trồng; người nuôi cần chú ý áp dụng các biện phòng bệnh từ ban đầu và trong suốt quá trình nuôi.
Chọn giống: Mua giống ở các cơ sở có uy tín, cá giống đồng đều, khỏe mạnh, sạch bệnh. Trước khi thả cần tắm cho cá bằng muối ăn (NaCl) 1,5 – 2%; hoặc thuốc tím (KMnO4) 10 – 15 mg/l trong 5 – 10 phút.
Quản lý ao nuôi: Xử lý đáy ao bằng vôi bột 7 -10 kg/100 m2. Thả giống đúng thời vụ, không thả dày. Định kỳ 15 – 20 ngày thay nước. Thêm nước cho ao nuôi từ 20 – 30% lượng nước trong ao. Khử trùng ao nuôi bằng vôi bột với lượng 2 – 3 kg/100 m3 nước. Hoặc các loại hóa chất khử trùng sử dụng trong NTTS (Chlorine, Iodine…). Tạt muối xuống ao với lượng 2 kg/1.000 m³ nước. Những ao rộng có thể treo túi vôi hoặc muối tại điểm cho ăn. Áp dụng các biện pháp để tăng nhiệt độ cho nước ao nuôi vào mùa đông.
Chăm sóc: Cho cá ăn đầy đủ, đảm bảo để cá phát triển. Theo dõi sức ăn của cá, hạn chế dư thừa thức ăn gây ô nhiễm môi trường nước ao nuôi. Định kỳ trộn Vitamin C vào thức ăn để tăng sức đề kháng cho cá. Dùng chế phẩm sinh học như EMC, Bio-DW tạt xuống ao 1 – 2 lít/1.000 m³ theo chu kỳ 15 ngày/lần. Ngoài ra, có thể dùng EMC, tỏi trộn với thức ăn tinh cho cá ăn 3 – 4 ngày/tháng. Việc này cũng giúp cá tăng sức đề kháng, chống chịu bệnh.
Sự can thiệp của thuốc
Khi phát hiện cá bị bệnh, người nuôi nên xử lý môi trường nước ao bằng BioIodine với liều lượng 1 lít/5.000 m3 nước ao nuôi. Hoặc Vicato 1/3.000 m3 nước ao. Dùng kháng sinh trộn vào thức ăn như: Amoxicillin liều lượng 2 g/kg thức ăn cho cá ăn liên tục 3 – 5 ngày. Lưu ý, ngày thứ 2 trở đi liều lượng giảm đi một nửa so với ngày thứ nhất. Sử dụng kháng sinh trong trường hợp này không tiêu diệt virus. Mà thay vào đó tiêu diệt các tác nhân cơ hội như vi khuẩn, nấm, ký sinh trùng có thể gây bệnh.
Trích dẫn từ anhsaovet.com
Nguyễn Nhung