
Nghề nuôi trồng động vật thuỷ sản đang phát triển mạnh. Để nâng cao sản lượng cũng như hiệu quả kinh tế; người nuôi cần phải tuân thủ đúng yêu cầu kỹ thuật. Vào dịp cuối năm, có rất nhiều bệnh xảy ra làm thiệt hại không nhỏ đến năng suất của người nuôi. Nhất là khi thời tiết thay đổi, trở nên lạnh hơn. Điều này thường khiến môi trường ở của động vật thuỷ sản bị tác động mạnh. Một số đối tượng chịu rét kém như: Rô phi, diêu hồng, chim trắng, ếch, tôm càng xanh … sẽ gây bất lợi cho các động vật thuỷ sản thích nghi kém; và tạo điều kiện thuận lợi cho các vi khuẩn, nấm, ký sinh trùng phát triển và lây lan nhanh. Đôi khi có thể dẫn đến bệnh hàng loạt, gây thất thoát tài sản trong nuôi trồng thuỷ sản.
Mục lục
Cá dễ mắc bệnh nấm thủy mi
Miền Bắc, khi giao mùa Đông Xuân, khí hậu diễn biến khá phức tạp; thời tiết thay đổi liên tục. Những ngày rét và những ngày ấm đan xen khiến thuỷ sản nuôi trồng buộc phải thích nghi nhanh chóng. Việc này là để chống chọi lại các vi khuẩn, nấm phát triển và lây lan nhanh mùa lạnh; đồng thời hiểu rõ hơn về các bệnh thường gặp ở thuỷ sản mùa lạnh; từ đó có các giải pháp xử lí kịp thời, bảo vệ thuỷ sản nuôi trồng mùa lạnh.
Đối với cá mắc phải bệnh này thương sẽ mất phương hướng để di chuyển trong nước. Chúng sẽ cảm thấy ngứa ngáy; và thường xử lý bằng cách cọ xát vào các vật xung quanh như thành hồ, các vật dụng trong hồ. Chính vì vậy, da của chúng dễ bị bong tróc, tổn thương. Từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho các vi khuẩn, nấm tấn công; gây ảnh hưởng sức khoẻ thuỷ sản.
Đây là bệnh khá phổ biến đối với các loại cá nước ngọt. Đặc biệt, nếu bệnh diễn biến nặng có thể gây ung thư trứng cá; thường là trứng cá trắm cỏ.
Một môi trường sống ô nhiễm, chứa chất dơ lâu ngày thường là nguyên nhân gây nên bệnh nấm thuỷ mi. Nấm thường phát triển đầu tiên ở các trứng bị ung, sau lây lan nhanh sang các trứng khỏe và gây chết cá hàng loạt.

Cách phòng bệnh tổng hợp
– Cải tạo ao sau mỗi vụ nuôi bằng cách vét bùn. Tạt vôi diệt tạp từ 7 – 10kg/100m2 diện tích ao nuôi. Rắc vôi định kỳ xuống ao nuôi 2 lần/tháng và trước khi trời mưa từ 1,5 – 2kg/100m3 nước ao. Treo túi vôi 2 – 4kg/túi quanh chỗ cho cá ăn. Định kỳ 15 ngày dùng các chế phẩm sinh học như Biobacter, Biopower tạt 1kg cho 8.000 – 10.000m3 nước ao nuôi. Để xử lý nước đục, nước nhờn, váng nhớt, làm sạch nước, ổn định pH. Và khử mùi hôi thối, phân hủy nhanh xác động thực vật, thức ăn dư thừa, mùn bã hữu cơ.
– Không nuôi cá với mật độ quá dày. Cá giống trước khi thả cần được tắm qua nước muối với liều lượng 2 – 4g muối/lít nước.
– Định kỳ bổ sung Vitamin C. Bằng cách trộn vào thức ăn cho cá ăn với liều lượng 200 – 300g/100kg thức ăn.
Bệnh virus mùa xuân trên cá chép
Với dấu hiệu bên ngoài da sậm màu, mắt lồi, mang nhợt nhạt các tơ mang xơ rách, Hoặc có hiện tượng xuất huyết điểm ở da, mang. Khi giải phẫu bên trong thấy xoang bụng có dịch, ruột chướng hơi. Và tụy bị sưng và có hiện tượng xuất huyết ở bong bóng. Đây được xem là dấu hiệu đặc trưng của bệnh này.
Đối với bệnh virus mùa xuân trên cá chép chưa có thuốc đặc trị ngoài việc sử dụng vaccine. Tuy nhiên việc dùng vaccine để trị bệnh cho cá chép nuôi thương phẩm rất tốn kém và khó áp dụng đại trà. Nên người nuôi cần điều chỉnh khung thời vụ thả giống hợp lý. Như vào thời điểm thời tiết có nhiệt độ ổn định > 22oC. Đồng thời áp dụng biện pháp phòng bệnh tổng hợp như bệnh nấm thủy mi.

Cá dễ mắc bệnh trùng loa kèn
Cá dễ mắc bệnh này vì bệnh ký sinh trên da, mang hoặc các phần phụ của các loài thuỷ sản. Trong đó có cá. Bệnh hay xuất hiện vào mùa xuân ở miền Bắc.
Phòng và trị bệnh: Dùng 500 – 700g đồng sun phát (phèn xanh) cho 1.000m3. Tạt đều khắp mặt ao nuôi. Tắm nước muối 2- 4% (2 – 4kg muối ăn cho 100 lít nước) cho cá bị bệnh. Thời gian tắm 10 – 15 phút tùy theo sức khỏe của cá.
Trích dẫn từ anhsaovet.com
Nguyễn Nhung