
Với xu thế chuyển dần sang nuôi tôm thâm canh, siêu thâm canh; và cùng với đó là sự lớn mạnh, phát triển không ngừng của đội ngũ doanh nghiệp chế biến thủy sản nói chung và chế biến tôm nói riêng; trong tương lai không xa, ngành chăn nuôi tôm kết hợp ứng dụng công nghệ cao dần trở thành triển vọng của ngành thủy sản trên cả nước. Tuy nhiên, dịch bệnh vẫn là nỗi lo thường trực trong sản xuất của các hộ nuôi tôm. Đây là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả nuôi trồng. Một trong những bệnh có thể gây tổn thất kinh tế, giảm hiệu quả nuôi trồng cho bà con, đó là bệnh MBV. Đây là bệnh do virus type A Baculovirus monodon gây ra. Khiến cho đàn tôm nuôi chậm lớn, dần dần tôm bị huỷ hoại lớp vỏ kitin. Cùng tham khảo bài viết này để hiểu rõ hơn về bệnh này nhé!
Mục lục
Tác nhân gây bệnh
Virus type A Baculovirus monodon gây ra
Bệnh này do virus type A Baculovirus monodon gây ra. Chúng có cấu trúc nhân ds ADN với lớp vỏ bao và có hình que . Theo kết luận của J.Mari và CTV; 1993 virus gây bệnh MBV có nguồn gốc từ Ấn Độ Thái Bình Dương. Trong đó nhân là 42 ± 3 x 246 ± 15 nm; phần vỏ bao là 75 ± 4 x 324 ± 33 nm. Virus gây bệnh ở Úc (P.plebejus, P. monodon, P. merguiensis) có phần nhân với kích thước 45-52 x 260-300 nm và phần vỏ bao là 60 x 420 nm.
Các giai đoạn của bệnh
Chủng virus này thường ký sinh ở những tế bào biểu mô hình ông gan tuỵ (Hepatopancreas); cũng như ký sinh ở các tế bào biểu bì trước ruột giữa. Theo nghiên cứu, virus sẽ tái sản xuất phần bên trong của nhân tế bào tôm, qua các giai đoạn:
Giai đoạn tiềm ẩn: Ở giai đoạn này tế bào chất ở tôm sẽ bị biến đổi.
Giai đoạn 1: Đến giai đoạn này thì phần nhân tế bào có dấu hiệu sưng nhẹ. Đồng thời, nhiễm sắc thể bắt đầu tan ra và di chuyển dần về phía màng nhân; khiến tế bào chất mất đi khả năng thực hiện nhiệm vụ của nó. Lúc này virus có sự ảnh hưởng nhất định đến tôm .
Giai đoạn 2: Lúc này phần nhân đã bước vào giai đoạn sưng nhanh, virus tăng đáng kể về số lượng; đồng thời, xuất hiện thể ẩn (Occlusion bodies) trong nhân.
Giai đoạn 3: Tế bào bị bệnh, nhân tăng lên gấp 2 lần, đường kính bình thường và tăng 6 lần về thể tích. Bên trong nhân có 1 đến nhiều thể ẩn; trong thể ẩn chứa đầy các virus. Các virus phá huỷ các tế bào ký chủ; tiếp tục di chuyển sang tế bào khác; hoặc theo chất bài tiết ra ngoài môi trường, tạo thành virus tự do tồn tại trong bùn và nước.
Biểu hiện bệnh
Khi tôm mới nhiễm virus MBV, dấu hiệu bệnh không biểu hiện rõ ràng. Khi tôm nhiễm bệnh nặng và phát bệnh thường có biểu hiện một số dấu hiệu. Đó là tôm có màu tối hoặc xanh tái, xanh sẫm; tôm kém ăn, hoạt động yếu và sinh trưởng chậm (chậm lớn); các phần phụ và vỏ kitin có hiện tượng hoại tử; có nhiều sinh vật bám (ký sinh trùng đơn bào, tảo bám và vi khuẩn dạng sợi).
Cách lây bệnh
Nguồn gốc của bệnh MBV
Bệnh MBV được phát hiện đầu tiên năm 1980 vỏ đàn tôm sú (Penaeus monodon); đưa từ Đài Loan đến nuôi ở Mehico (Lightner và CTV, 1981, 1983). Tiếp theo các nhà nghiên cứu đã phát hiện bệnh MBV có xuất phát từ Đài Loan, Philippines, Malaysia, Polynesia thuộc Pháp, Singapore, Indonesia, Thái Lan, Trung Quốc… Ở Đài Loan, bệnh MBV có liên quan đến thiệt hại nghiêm trọng cho nghề nuôi tôm sú năm 1987 và 1988 (Chen và CTV, 1989). Cho đến nay người ta biết bệnh MBV phân bố rất rộng rãi: châu Á, Thái Bình Dương, châu Phi, miền Nam châu u, châu Mỹ. Tôm sú (P. monodon) thường xuyên nhiễm bệnh MBV; và một số tôm khác cũng nhiễm bệnh MBV: P. merguiensis, P. semisulcatus, P. kerathurus, P. plebejus, P. indicus, P. penicillatus, P. esculentus, P. vannamei (có khả năng). Virus MBV nhiễm từ Post-larvae đến tôm trưởng thành.
Cách thức lây lan
Bệnh MBV lan truyền theo phương nằm ngang; không truyền bệnh theo phương thẳng đứng.
Thực trạng ở Việt Nam
Ở Việt Nam tháng 10-11/1994 Bùi Quang Tề lần đầu tiên đã nghiên cứu về mức độ nhiễm bệnh MBV trên tôm sú nuôi các tỉnh ven biến phía nam: Tôm sú nuôi nhiễm virus MBV khá cao: Tôm thịt ở Minh hải: 50-85,7%, ở Sóc Trăng 92,8%; Tôm giống ở Bà Rịa-Vũng Tàu 5,5-31,6%, tôm giống Nha Trang 70-100%. Bệnh MBV là một trong những nguyên nhân gây chết tôm ở các Tỉnh phía nam năm 1993-1994. Tiếp theo Đỗ Thị Hoà từ tháng 11/1994-7/1995 cũng đã nghiên cứu bệnh MBV trên tôm sú nuôi ở các tỉnh Nam Trung Bộ.
Kết quả cho thấy: tỷ lệ nhiễm virus MBV ở ấu trùng tôm sú là 33,8%, tôm giống là 52,5%, tôm thịt là 66,5%. Năm 1995 sơ bộ điều tra bệnh tôm sú nuôi ở các tỉnh phía Bắc đã nhiễm mầm bệnh MBV ở các tỉnh: Nghệ An, Thanh Hoá, Hải Phòng. Vì những tỉnh này đều lấy tôm giống từ Nha Trang ra nuôi (Bùi Quang tề và CTV, 1997). Đến nay kiểm tra tôm post sản xuất từ miền Bắc ở Quảng Ninh đến các tỉnh phía Nam ở Cà Mau; hầu hết chúng đều nhiễm mầm bệnh MBV, ở mức độ khác nhau. Bệnh MBV không làm tôm chết hàng loạt, nhưng làm tôm chậm lớn và chết rải rác. Khi thu hoạch tỷ lệ tôm sống rất thấp; đây là vấn đề nan giải của nghề nuôi tôm biến ở các tỉnh ven biển.
Bệnh lý
Đế chẩn đoán bệnh MBV và bệnh virus ở tôm he nói chung; chúng ta phải kiểm tra nhiều yếu tố: Quá trình nuôi tôm, dấu hiệu bệnh lý, mô bệnh học, dựa trên nguyên tắc sau:
Thu mẫu bệnh soi qua kính hiển vi bằng mẫu nhuộm tươi và mẫu cắt mô bệnh học; hoặc soi qua kính hiển vi điện tử.
- Làm tăng sự nhiễm bệnh để kiểm tra mô bệnh học và soi qua kính hiển vi; hoặc qua kính hiển vi điện tử.
- Thực nghiệm sinh học gây cảm nhiễm bệnh nhân tạo; bằng các mẫu tôm đã nhiễm bệnh cho đàn tôm khỏe mạnh. Sau đó theo dõi các dấu hiệu bệnh lý; và kiểm tra mẫu nhuộm tươi và mô bệnh học.
Các cách phòng bệnh
- Không dùng tôm giống có nhiễm mầm bệnh MBV.Tẩy dọn ao, bể nuôi như phương pháp phòng chung.
- Nuôi tôm đúng mùa vụ, quản lý chăm sóc tốt, cung cấp đầy đủ thức ăn về chất và lượng. Không để tôm sôc trong quá trình nuôi.
- Kiểm dịch đàn tôm bố mẹ trước khi cho đẻ.
- Xử lý nước bằng tầng ôzôn và các chất sát trùng Bezalkon clorua trước khi ấp trứng; thì có thể sản xuất được đàn tôm Postlarvae không nhiễm virus MBV
Trích dẫn từ anhsaovet.com.vn
Nguyễn Nhung