
Trước diễn biến phức tạp của thời tiết trong thời điểm giao mùa như đang nắng nóng chuyển sang mưa rào, nhiệt độ đang cao chuyển xuống thấp là điều kiện thuận lợi cho các mầm bệnh phát triển trên cá nuôi. Trong đó, đặc biệt là bệnh nấm thủy my đã gây thiệt hại không nhỏ cho nghề nuôi cá nước ngọt ở nước ta. Bà con cần có các biện pháp phòng, trị bệnh kịp thời, hiệu quả. Đây là bệnh do một số loài nấm thuộc các giống: Achlya, Saprolegnia, Leptolegnia… gây ra. Những loại nấm dạng sợi, bậc thấp, có cấu tạo đa bào và có vách ngăn gây ra bệnh trên cá. Căn bệnh này rất phổ biến và có nguy cơ lây lan nhanh gây thiệt hại lớn tới kinh tế của người nuôi trồng thuỷ sản. Cùng tìm hiểu nguyên nhân, biểu hiện cũng như cách phòng và trị bệnh qua bài viết sau nhé.
Mục lục
Tác nhân gây bệnh nấm thuỷ my
Bệnh do một số loài nấm thuộc các giống: Achlya, Saprolegnia, Leptolegnia… gây ra. Chúng có dạng hình sợi, thuộc nhóm nấm bậc thấp, cấu tạo sợi nấm đa bào nhưng không có các vách ngăn nên chúng trông giống như tế bào khổng lồ. Mỗi sợi nấm có đường kính dao động từ 6 đến 14 ụ,m, kích thước bào tử đựng 3-4 x 8-11 ụ,m.
Mỗi sợi nấm gồm 2 phần: phần gỗ để có thể bám vào phần tổ chức của thuỷ sản nuôi trồng, còn phần ngọn tự do sẽ nằm ở môi trường nước. Nấm sinh sản bằng nhiều hình thức khác nhau. Đặc biệt, loại nấm này lây lan rất nhanh do có tiêm mao. Tiêm mao là bộ phận có thể di chuyển trong nước.
Biểu hiện bệnh
Biểu hiện khi động vật thuỷ sản mắc bệnh này đó là có các đốm trắng trên da thuỷ sản, ngứa ngáy cọ sạt vào bờ hoặc là các vật dụng trong ao. Kèm theo đó là các sợi nấm mềm và nhỏ. Giai đoạn đầu khi cá mới bị bệnh rất khó phát hiện được bằng mắt thường. Và khi đã phát hiện được bằng mắt thường có nghĩa cá đã bị bệnh nặng. Chúng phát triển rất nhanh, chỉ sau vài ngày đã đan chéo vào nhau nhìn như bông hoa. Người nuôi có thể nhận biết trứng cá mắc bệnh thông qua màu sắc, chúng nó màu trắng đục và có các sợi nấm. Bệnh xuất hiện nhiều ở các ao nước tù đọng, có nhiều mùn bã hữu cơ, nuôi mật độ dày. Động vật thuỷ sản bị đánh bắt vận chuyển xây xát. Vết thương ngoài da do ký sinh trùng và vi khuẩn gây ra.
Cách lây bệnh
Các loài cá nước ngọt, baba, ếch,cá trắm cỏ, cá trôi, cá mè, cá chép… đều có nguy cơ nhiễm bệnh nấm. Chúng gây tác hại lớn cho nghề nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt tự sản xuất giống cho đến giai đoạn nuôi thịt.Mùa phát bệnh thường vào mùa mát mẻ, mùa xuân, mùa thu; đặc biệt là mùa đông ở miền Bắc. Miền Nam vào mùa mưa. Nhiệt độ nước từ 18-250C nấm phát triển mạnh nhất.
Bệnh lý
Có thể bằng mắt thường nhìn thấy các sợi nấm hoặc soi dưới kính hiển vi. Nuôi cấy phân lập các loài nấm bằng môi trường Sabourand Agar, Potato dextrose Agar có kháng sinh.
Cách phòng ngừa
Áp dụng các biện pháp phòng bệnh tổng hợp. Trong sinh sản nhân tạo các loài cá có trứng dính chép, trê,…. cần phải khử trùng các cá thể trứng bám vào bể ấp. Nguồn nước ương ấp lọc sạch. Các trứng ương ấp tỷ lệ thụ tinh cao. Hạn chế lượng trứng ung trong bể. Có thể ấp trứng trong nước có nồng độ thuốc 0,1-0,2 ppm TCCA. Trong các mùa xuất hiện bệnh định kỳ 1-2 lần/tháng phun thuốc TCCA nồng độ 0,3-0,5 ppm đối với cá; nồng độ 0,5-0,8 ppm đối với ếch, baba. Hatai và Willoughby, 1988 cho rằng vi khuẩn Pseudomonas fluorescens có khả năng ức chế nấm Saprolegnia parasitica bằng kháng sinh từ vi khuẩn.
Cách điều trị bệnh
Tắm cho ĐVTS bằng Formalin nồng độ 200-300 ppm thời gian 30-60 phút. Hoặc phun xuống ao, bể nuôi 2 lần/ tuần thuốc Formalin nồng độ 10-20 ppm. Dùng Bronopol tắm cho cá 30ppm (30mg/l) thời gian 15 phút. Dùng 50ppm Bronopol để xử lý trứng cá trong thời gian 30 phút.
Trích dẫn từ anhsaovet.com.vn
Nguyễn Nhung